Tóm tắt Luận án Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính tại các công ty niêm yết thuộc tập đoàn công nghiệp than - Khoáng sản Việt Nam

pdf 26 trang Hạ Vy 13/07/2025 80
Bạn đang xem tài liệu "Tóm tắt Luận án Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính tại các công ty niêm yết thuộc tập đoàn công nghiệp than - Khoáng sản Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdftom_tat_luan_an_hoan_thien_he_thong_chi_tieu_phan_tich_tai_c.pdf

Nội dung tài liệu: Tóm tắt Luận án Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính tại các công ty niêm yết thuộc tập đoàn công nghiệp than - Khoáng sản Việt Nam

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TÀI CHÍNH HỌC VIỆN TÀI CHÍNH —–—–—– NGUYỄN THỊ QUỲNH TRANG HOÀN THIỆN HỆ THỐNG CHỈ TIÊU PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH TẠI CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT THUỘC TẬP ĐOÀN CÔNG NGHIỆP THAN – KHOÁNG SẢN VIỆT NAM TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ HÀ NỘI – 2019
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TÀI CHÍNH HỌC VIỆN TÀI CHÍNH —–—–—– NGUYỄN THỊ QUỲNH TRANG HOÀN THIỆN HỆ THỐNG CHỈ TIÊU PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH TẠI CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT THUỘC TẬP ĐOÀN CÔNG NGHIỆP THAN – KHOÁNG SẢN VIỆT NAM Chuyên ngành: Kế toán Mã số: 9.34.03.01 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS NGHIÊM THỊ THÀ 2. TS. NGUYỄN THỊ THANH HÀ NỘI – 2019
  3. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận án Trong bối cảnh hiện nay, phân tích tài chính được xác định là công cụ quản trị quan trọng trong các doanh nghiệp nói chung và các công ty niêm yết thuộc TKV nói riêng. Để sử dụng công cụ này một cách hiệu quả, có rất nhiều khía cạnh phân tích trong đó hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính là quan trọng nhất. Thông qua giá trị và xu hướng biến động của các chỉ tiêu phân tích tài chính, nhà quản trị có thể đánh giá được tình hình tài chính của doanh nghiệp, từ đó tìm ra nguyên nhân và các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, năng lực tài chính của doanh nghiệp. Như vậy phân tích tài chính với hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính đánh giá tình hình tài chính và nhận diện rủi ro tài chính là một trong những công cụ quản trị đắc lực giúp nhà quản trị có căn cứ thích hợp để đưa ra các quyết định đúng đắn, phù hợp nhất. Trong thời gian gần đây, hiệu quả hoạt động của TKV nói chung và các công ty niêm yết nói riêng đang bị giảm sút. Bên cạnh đó, các công ty niêm yết thuộc TKV hiện nay vẫn giữ một vị trí, vai trò quan trọng trong nền kinh tế nói chung và trong các Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước nói riêng. Nhà nước sớm hay muộn phải thoái vốn tại các công ty này. Tuy nhiên để thoái vốn thành công đòi hỏi năng lực quản trị của các công ty phải được cải thiện nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của các công ty. Điều này sẽ làm cho cổ phiếu các công ty hấp dẫn hơn, Nhà nước thoái vốn thành công hơn và đóng góp tốt hơn cho nền kinh tế nước nhà. Hơn nữa, nghiên cứu thực tế qua các phiếu khảo sát, đánh giá ban đầu, tác giả nhận thấy việc sử dụng hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính tại các công ty niêm yết này chưa đáp ứng được yêu cầu quản trị. Chính vì thế, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính tại các công ty niêm yết thuộc Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam” làm luận án tiến sỹ của mình. 2. Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài Trong quá trình tiếp cận các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính phục vụ quản trị tại doanh nghiệp nói chung và các công ty niêm yết nói riêng, tác giả nhận thấy các công trình đều nghiên cứu các nhóm chỉ tiêu liên quan như: Tình hình huy động vốn (1); tình hình sử dụng vốn (2); tình hình và kết quả kinh doanh (3); tình hình lưu chuyển tiền (4); tình hình công nợ và khả năng thanh toán (5); rủi ro tài chính (6); tình hình cổ phiếu (7); tình hình tăng trưởng và phát triển bền vững (8). Vì vậy tác giả đi vào khái quát hoá các công trình nghiên cứu liên quan theo 8 nhóm chỉ tiêu trên. Cụ thể: - Nhóm các công trình nghiên cứu về các chỉ tiêu phân tích tài chính nhằm phân tích tình hình huy động vốn: Đầu tiên là các công trình trong nước, có thể kể đến Trong các cuốn sách của các tác giả như: Ngô Thế Chi và Nguyễn Trọng Cơ [10, tr 139,148-151], Nguyễn Trọng Cơ và Nghiêm Thị Thà [14, tr141, 152- 155], Bùi Văn Vần và Vũ Văn Ninh [86, tr 90-97], Phạm Thị Gái [36, tr 272-
  4. 273], Nguyễn Năng Phúc [58, tr 169-170,203-206], Nguyễn Văn Công [19, tr 196-208], Nguyễn Thị Quyên [65,tr44-45], Phạm Thị Thủy [81, tr148-149, 164], Ngô Kim Phượng [60]; Lê Thị Xuân [87, tr 160-161]; Vũ Thị Thục Oanh [ 54] đều có đồng quan điểm trong việc sử dụng các chỉ tiêu phân tích tài chính để phân tích tình hình nguồn vốn như: các chỉ tiêu về nguồn vốn trên bảng cân đối kế toán, tỷ trọng từng bộ phận nguồn vốn trong tổng nguồn vốn, và các chỉ tiêu đảm bảo hoạt động tài trợ như vốn lưu chuyển (hoặc vốn hoạt động thuần), chi phí huy động vốn bình quân, hệ số tự tài trợ, hệ số tài trợ thường xuyên. Bên cạnh đó, đề cập đến việc phân tích tình hình huy động vốn trong các doanh nghiệp đặc thù, các tác giả của các luận án tiến sỹ như Nguyễn Thị Quyên [65, tr25-27], Nguyễn Thị Cẩm Thuý [80,tr 39-40], Đàm Thanh Tú [84, tr47], Nguyễn Thị Ngọc Lan [50,tr 46-49], Mai Khánh Vân [85, tr37-39], Nguyễn Thị Lan Anh [1, tr46], đã chỉ ra rằng nhóm các chỉ tiêu phân tích tình hình huy động vốn ngoài các chỉ tiêu nói trên, còn cần chi tiết để phù hợp với đặc thù ngành mà tác giả đó nghiên cứu như: bất động sản, cầu đường, xây dựng,... Tiếp theo là các công trình ngoài nước, có thể kể đến như: Tác giả Goutam Chandra Saha [96] đã đề cập đến chỉ tiêu phân tích tình hình huy động vốn đó là Tổng nguồn vốn và vốn lưu động thuần. Tác giả Charles H. Gibson [90, 307-309] cũng đưa ra chỉ tiêu vốn lưu động thuần khi phân tích về tình hình huy động vốn của công ty. - Nhóm các công trình nghiên cứu về các chỉ tiêu phân tích tài chính phân tích tình hình sử dụng vốn: Đối với các công trình trong nước, Trong các sách giáo trình, sách tham khảo, sách chuyên khảo, luận án tiến sỹ kinh tế nhận thấy có nhiều quan điểm giống nhau về chỉ tiêu phân tích tình hình sử dụng vốn. Cụ thể về quy mô và cơ cấu sử dụng vốn các tác giả như [10, tr173-174], [58,tr178], [19, tr249], [62,tr107-108], Nguyễn Thị Cẩm Thuý [80,tr41,44], Lê Thị Xuân [87,tr160-161], [14,tr168], [50,tr46-51], [85,tr37], [84,tr46-47], [81,tr154-155], đều sử dụng các chỉ tiêu tài sản trên bảng cân đối kế toán và tỷ trọng từng bộ phận tài sản trong tổng tài sản. Về năng lực hoạt động, các công trình nghiên cứu bắt đầu có sự khác biệt về tên gọi chỉ tiêu, số lượng chỉ tiêu. Đối với các nhà khoa học thuộc Học viện Tài chính đi vào các chỉ tiêu như số vòng quay của tài sản, số vòng quay HTK, số ngày 1 vòng quay HTK, hiệu suất sử dụng TSCĐ [10,tr180-195], Bùi Văn Vần [86,tr112-115], [85, tr46-48], [84,tr 56-57], [50,tr 57-58], [1,tr49-51],[14,tr223-238] . Còn các nhà khoa học thuộc trường Đại học Kinh tế quốc dân như [19], [62, tr187-225], [81,tr224-237], [58,tr246-264], [45,tr23-27], [80,tr48-51] thường sử dụng các chỉ tiêu như: sức sinh lợi, suất hao phí và sức sản xuất của vốn; sức sinh lợi, suất hao phí và sức sản xuất của TSCĐ; sức sinh lợi, suất hao phí và sức sản xuất của HTK; số ngày 1 vòng quay của TS, TSDH, TSNH, HTK, Tác giả Lê Thị Xuân còn đi vào các chỉ tiêu vòng quay của NVL, vòng quay của CP SXKD DD, vòng quay của thành
  5. phẩm, hàng hoá, hiệu suất sử dụng TSCĐ, hiệu suất sử dụng tổng tài sản [87,tr193-198]. Về khả năng sinh lời của vốn: có nhiều cách nhìn nhận các chỉ tiêu nhóm này trong các công trình. Các tác giả [10, tr 196-200], [14, tr241-246], [85,tr49], [84,tr56] lại đi vào phân tích khả năng sinh lời qua các chỉ tiêu như BEP, ROA, ROE. Tác giả [36,tr287-309], [65, tr30-32], [45,tr29-32], [58, tr 265-274], [62,tr187-225] đi vào phân tích các chỉ tiêu như sức sinh lợi của tài sản, sức sinh lợi của VCSH, sức sinh lợi của TSCĐ, suất hao phí, Đặc biệt tác giả Nguyễn Thị Mai Hương [44, tr 43-52], đã đi vào phân tích các chỉ tiêu phản ánh hiệu suất sử dụng tài sản phản ánh đặc thù của ngành khai thác khoáng sản như: công suất khai thác mỏ của TSCĐ, sức sản xuất tính theo DT, tỷ suất LN theo tổng chi phí, tỷ suất LN theo tổng vốn đầu tư khai thác, Tuy nhiên cách sắp xếp các nhóm chỉ tiêu cũng có sự khác nhau giữa các nhà nghiên cứu và số lượng chỉ tiêu giữa các công trình cũng khác nhau. Đối với các công trình nước ngoài, có thể kể đến các tác giả như [104, tr 232-237] sử dụng các chỉ tiêu như: tỷ suất sinh lợi từ tài sản, tỷ suất sinh lợi vốn cổ phần và tỷ suất sinh lợi của vốn chủ sở hữu đầu tư. Các tác giả như [93, tr225- 239], [101] đã sử dụng các chỉ tiêu phản ánh tài sản như Tài sản ngắn hạn, Tiền, Hàng tồn kho, để phân tích tình hình sử dụng vốn. Tác [95, tr89-91] lại sử dụng các chỉ tiêu như số vòng quay hàng tồn kho, số vòng quay các khoản phải thu, số vòng quay TSCĐ, số vòng quay tổng tài sản, thời gian thu tiền bình quân. Bên cạnh đó nhóm các tác giả [107, tr474]; [90, tr 307-325]; [106, tr82-83] chỉ đưa ra chỉ tiêu số vòng quay tổng tài sản. Như vậy qua quá trình nghiên cứu các công trình của các tác giả trong và ngoài nước, tác giả hoàn toàn đồng tình với các chỉ tiêu mà công trình của các nhà nghiên cứu đã đề cập đến. Tuy nhiên theo tác giả để phục vụ mục đích quản trị, đối với quyết định sử dụng vốn của nhà quản trị nên sử dụng các chỉ tiêu phân tích tài chính sau: (1)Về quy mô sử dụng vốn: các chỉ tiêu tài sản và tỷ trọng tài sản trong tổng tài sản. (2)Về năng lực hoạt động: số vòng luân chuyển vốn kinh doanh, số vòng luân chuyển vốn ngắn hạn, kỳ luân chuyển vốn ngắn hạn, vòng quay HTK, kỳ luân chuyển HTK, hiệu suất sử dụng tài sản cố định. (3)Về khả năng sinh lời của vốn: BEP, ROE, ROA. Các chỉ tiêu này giúp nhà quản trị đánh giá việc sử dụng vốn có hiệu quả hay không. - Nhóm các công trình nghiên cứu về các chỉ tiêu phân tích tài chính phân tích tình hình và kết quả kinh doanh: Các tác giả trong nước đều cùng quan điểm về các chỉ tiêu phân tích tài chính sử dụng khi phân tích tình hình và kết quả kinh doanh đó là các chỉ tiêu trên báo cáo kết quả kinh doanh, hệ số chi phí, hệ số giá vốn hàng bán/ DTT, hệ số CPBH/ DTT, hệ số CPQLDN/ DTT, hệ số sinh lời từ hoạt động bán hàng, hệ số sinh lời từ hoạt động kinh doanh và hệ số sinh lời hoạt động ròng. [10, tr212- 214], [14, tr192-194], [85, tr44-47], [84, tr53-54] Các tác giả khác như Nguyễn Năng Phúc [58, tr235-273], Phạm Thị Thuỷ [81, tr211], [45, tr33-35] đưa ra các chỉ tiêu như sức sinh lời của tài sản, sức sinh
  6. lời của VCSH, tỷ suất lợi nhuận so với chi phí, tỷ suất lợi nhuận thuần, tỷ suất lợi nhuận gộp, Các công trình nước ngoài mà tác giả được biết như [90, tr311-325] đề cập đến các chỉ tiêu như tỷ suất lợi nhuận ròng, tỷ suất lợi nhuận biên, ROE, ROA, tỷ suất lợi nhuận gộp, ROI. Trong chương trình đào tạo thạc sỹ quản trị kinh doanh, các tác giả trường Đại học mở Bangladesh đưa ra các chỉ tiêu phân tích tình hình và kết quả kinh doanh thông qua tỷ suất lợi nhuận như: tỷ suất lợi nhuận gộp, tỷ suất lợi nhuận ròng, tỷ suất hoàn vốn đầu tư, ROE, ROA. Tác giả Goutam Chandra Saha [97, tr12-13] phân tích các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận gộp, tỷ suất lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh, tỷ suất lợi nhuận ròng, khả năng sinh lời của lợi nhuận trước thuế và lãi vay. Tác giả hoàn toàn đồng tình với các quan điểm nghiên cứu trên và từ đó kế thừa cho nghiên cứu của mình. Để phân tích tình hình và kết quả kinh doanh, tác giả sử dụng các chỉ tiêu phân tích tài chính như: các chỉ tiêu trên báo cáo kết quả kinh doanh, hệ số chi phí, hệ số giá vốn hàng bán / DTT, hệ số CPBH/ DTT, hệ số CPQLDN/ DTT, hệ số sinh lời từ hoạt động bán hàng, hệ số sinh lời từ hoạt động kinh doanh và hệ số sinh lời hoạt động. - Nhóm các công trình nghiên cứu về các chỉ tiêu phân tích tài chính phân tích tình hình lưu chuyển tiền: Các công trình trong nước có thể kể đến của các tác giả [10, tr239], [14, tr201], [85, tr51-52], [84, tr55], [50, tr59-60] trong phần lý luận của mình đều đưa ra các chỉ tiêu phân tích tài chính như tỷ trọng dòng tiền thu vào của từng hoạt động, hệ số tạo tiền. Bên cạnh đó tác giả [45, tr59-60], [65, tr49-50], [84, tr55] còn sử dụng các chỉ tiêu hệ số đảm nhận nợ của dòng tiền, hệ số đảm nhận cổ tức từ dòng tiền thuần hoạt động, Tác giả Lê Thị Xuân [87,tr258-261] sử dụng các chỉ tiêu như dòng tiền trên tổng tài sản, khả năng trả nợ, khả năng trả nợ ngắn hạn, Tác giả Nguyễn Thị Lan Anh [1, tr 61-64] sử dụng các chỉ tiêu như tỷ trọng dòng tiền thu vào hoạt động kinh doanh, tỷ trọng dòng tiền thuần trên tổng tài sản, tỷ trọng dòng tiền thuần trên doanh thu thuần, Các công trình nước ngoài khi đi phân tích dòng tiền đã sử dụng chỉ tiêu như: chi phí vốn, tỷ số khả năng trả nợ bằng tiền hiện hành, tỷ số khả năng trả nợ bằng tiền, tỷ lệ hoàn vốn tiền mặt trên doanh thu, [107, tr670-678], [90, tr 372-380]. Tác giả kế thừa các lý luận và nghiên cứu của các tác giả nói trên và rút ra nhóm chỉ tiêu phân tích tài chính để phân tích tình hình lưu chuyển tiền gồm các chỉ tiêu: Dòng tiền thu vào trong kỳ, Tỷ trọng dòng tiền thu vào của từng hoạt động, Hệ số tạo tiền, Hệ số tạo tiền từ tài sản, Hệ số tạo tiền từ vốn chủ sở hữu, Hệ số tạo tiền từ doanh thu. - Nhóm các công trình nghiên cứu về các chỉ tiêu phân tích tài chính phân tích tình hình công nợ và khả năng thanh toán: + Về công nợ: Các công trình trong nước có thể kể đến như Phạm Thị Gái [36, tr278-281], Ngô Thế Chi và Nguyễn Trọng Cơ [10, tr248-250], Nguyễn Năng Phúc [58, tr215-217], Trần Thị Minh Hương [45,tr25-26], Nguyễn Văn Công [19,tr266-273], Nguyễn Ngọc Quang [62,tr137-152], Nguyễn Thị Quyên
  7. [65,tr36-41], Nguyễn Thị Cẩm Thuý [80,tr45-47], Nguyễn Trọng Cơ và Nghiêm Thị Thà [14,tr210-211], Mai Khánh Vân [85,tr39-41], Đàm Thanh Tú [84, tr48- 50], Nguyễn Thị Lan Anh [1,tr54-56], Phạm Thị Thuỷ [81, tr177-198] đều đưa ra các chỉ tiêu phân tích tài chính để phân tích công nợ như: tổng các khoản phải thu, tổng các khoản phải trả, số vòng quay các khoản phải thu (hệ số thu hồi nợ, số vòng luân chuyển các khoản phải thu), số vòng quay các khoản phải trả, tỷ lệ các khoản phải thu so với các khoản phải trả, thời gian thu hồi nợ, thời gian hoàn trả nợ. Bên cạnh đó một số tác giả còn đưa ra các chỉ tiêu chi tiết về công nợ như: tỷ lệ chiếm dụng vốn so với vốn bị chiếm dụng, hệ số nợ so với tổng vốn chủ sở hữu [58, tr208-229]; Tỷ lệ phải thu quá hạn so với phải trả quá hạn, tỷ lệ phải thu quá hạn so với tổng phải thu, tỷ lệ phải thu quá hạn so với tổng tài sản [62, tr152]. Cùng quan điểm với các công trình trong nước, tác giả Charles H. Gibson [90, tr215-234], [107, tr439-480], [89, tr663-667]; [111, tr13] cũng đưa ra các chỉ tiêu phân tích tài chính phân tích như số vòng quay các khoản phải thu, số ngày 1 vòng quay các khoản phải thu, tổng các khoản phải thu, số vòng quay các khoản phải trả, số ngày 1 vòng quay các khoản phải trả. Về khả năng thanh toán: Các công trình trong nước mà tác giả được biết như [10, tr255-257], [45, tr 20-23], [58, tr 208-211,224-231], [19, tr266-273], [65, tr27-30], [87, tr 203- 213], [86, tr107-110], [14, tr217-219], [85, tr 41-43], [84, tr50-52], [50,tr52-54], [1, tr57-59] đều cùng sử dụng các chỉ tiêu như hệ số khả năng thanh toán tổng quát, hệ số khả năng thanh toán nhanh, hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn, hệ số khả năng thanh toán lãi vay. Các tác giả nước ngoài như nhóm tác giả [107, tr559-562, tr731-737]; [99, tr100]; [95, tr87-88]; [90, trtr215-234]; [97, tr11]; [105, tr239-242]; [89,, tr89- 90], [93, tr239-241]; [94, tr 127-128]; [111, tr 13-16] và đã đưa ra các chỉ tiêu như: hệ số khả năng thanh toán hiện hành, hệ số khả năng thanh toán nhanh, hệ số khả năng thanh toán bằng tiền. - Nhóm các công trình nghiên cứu về các chỉ tiêu phân tích tài chính phân tích tình hình rủi ro: Các tác giả khi phân tích tình hình rủi ro thường sẽ sử dụng kết hợp các chỉ tiêu về huy động vốn, khả năng thanh toán, đòn bẩy tài chính mà trong các công trình của các tác giả [10, tr277-288], [58, tr310], [62, tr258-269], [65, tr46-47], [85, tr 54-55], [84, tr65], [50, tr 58-59], [1, tr64-66]. Tác giả [80, tr51-53] lại cho rằng để phân tích tình hình rủi ro nên phân tích giá trị rủi ro hoạt động, chi phí duy trì hoạt động, giá trị rủi ro thị trường, giá trị rủi ro thanh toán. Đối với các công trình nước ngoài, các chỉ tiêu phân tích tài chính mà tác giả [95, tr91-94]; [100, tr378]; [103, tr350-398]; [105, tr243-248]; [89, tr88-91]; [94,tr128-132] sử dụng để phân tích rủi ro là đòn bẩy tài chính và hệ số nợ. Như vậy qua quá trình nghiên cứu tác giả nhận thấy chỉ tiêu hệ số nợ và đòn bẩy tài chính là hai chỉ tiêu chính được sử dụng để đánh giá rủi ro tài chính của công ty niêm yết.
  8. - Nhóm các công trình nghiên cứu về các chỉ tiêu phân tích tài chính phân tích cổ phiếu: Với các công trình trong nước, các tác giả [45, tr36-37], [62, tr 240-244], [65, tr52-53], [10, tr203-205], [14, tr249-252], [85, tr50-51], [84, tr 59-61], [81, tr246-252] đều sử dụng chỉ tiêu EPS, P/E, Tỷ suất cổ tức. Ngoài ra tác giả [81, tr246-252] còn tính toán chỉ tiêu giá trị sổ sách của 1 cổ phiếu phổ thông, hệ số lưu chuyển tiền thuần trên cổ phần. Tác giả [58, tr275-276] tính toán các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận so với vốn cổ phần, tỷ lệ giá thị trường so với mệnh giá 1 cổ phiếu, tỷ suất sinh lãi cổ phần, tỷ suất chi trả lãi cổ phần. Tác giả [62, tr240-244] tính toán các chỉ tiêu EPSC, DPS, hệ số giá của cổ phiếu, tỷ suất sinh lãi cổ phần, giá trị theo sổ kế toán của 1 cổ phiếu. Tác giả [10, tr203-205], [14, tr 249-252], [86,tr119-120] lại tính toán thêm chỉ tiêu D/E, D/P và BVPS. Các tác giả nước ngoài như sử dụng chỉ tiêu P/E, M/B, giá trị sổ sách trên mỗi cổ phần khi phân tích cổ phiếu [95, tr98-99]. Các tác giả trường Đại học Mở Băngladesh ngoài sử dụng chỉ tiêu P/E, M/B, còn tính toán tỷ suất cổ tức[99, tr101- 102]. Các tác giả Brigham và Ehrhardt [89, tr100-102] khi phân tích cổ phiếu sử dụng thêm chỉ tiêu D/E, cổ tức trên mỗi cổ phiếu. Tác giả [90, tr347-356] còn tính toán chỉ tiêu tỷ lệ phần trăm thu nhập được giữ lại, D/P, tỷ lệ cổ tức. - Nhóm các công trình nghiên cứu về các chỉ tiêu phân tích tài chính phân tích tình hình tăng trưởng và phát triển bền vững: Các tác giả trong nước đã sử dụng các chỉ tiêu phân tích tài chính phân tích tình hình tăng trưởng như: tốc độ tăng (giảm) về tài sản, tốc độ tăng (giảm) về doanh thu thuần, tốc độ tăng (giảm) về về lợi nhuận sau thuế, tốc độ tăng (giảm) về vốn chủ sở hữu, tốc độ tăng (giảm) về dòng tiền thuần, tốc độ tăng (giảm) về giá trị sổ sách cổ phiếu thường, tốc độ tăng (giảm) về thu nhập bình quân cổ phiếu thường, tỷ lệ tăng trưởng bền vững. [10, tr367-371], [14, tr 263-267], [85, tr 52- 54], [84, tr62-64], [50, tr 61-62]. Tác giả [101] có sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ tăng trưởng bền vững để phân tích tình hình tăng trưởng và đánh giá doanh nghiệp. Bài báo của tác giả [106, tr82- 83], đã nghiên cứu các chỉ tiêu ảnh hưởng đến tăng trưởng thu nhập đối với các công ty khai thác như vốn ngắn hạn trên tổng tài sản, tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu, tỷ lệ doanh thu trên tài sản và tỷ suất lợi nhuận ròng. Về các chỉ tiêu phân tích tài chính phân tích tình hình phát triển bền vững, theo tác giả tìm hiểu thì hiện nay chưa có công trình nào nghiên cứu về các chỉ tiêu này. Đây chính là điểm mới của tác giả trong luận án của mình. Kết luận về các công trình đã công bố Sau quá trình nghiên cứu một cách khái quát về các công trình liên quan đến hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính tại các doanh nghiệp nói chung và các công ty niêm yết nói riêng, tác giả nhận thấy như sau: - Về nội dung nghiên cứu: Các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước có cách tiếp cận riêng biệt nhau về nội dung phân tích của mình. Có tác giả đi vào phân tích tài chính phục vụ mục đích quản trị, có tác giả đi vào phân tích chung phục vụ các đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của công ty, có tác
  9. giả chỉ đi vào phân tích một khía cạnh của hoạt động tài chính như tăng trưởng thu nhập, khả năng sinh lợi, rủi ro tài chính, - Về phạm vi nghiên cứu: Các công trình nghiên cứu thường là hai nhóm: Nhóm thứ nhất nghiên cứu về phân tích tài chính hoặc hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính dùng chung cho các doanh nghiệp. Với nhóm này, các chỉ tiêu sẽ không mang tính đặc thù, mà sử dụng chung cho tất cả các loại hình doanh nghiệp, các ngành nghề kinh doanh. Điều này làm cho người sử dụng thông tin khó có thể đánh giá được chính xác tình hình tài chính của công ty cũng như đề xuất các giải pháp. Với nhóm thứ hai nghiên cứu về phân tích tài chính hoặc hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính theo từng lĩnh vực hoạt động, ngành nghề kinh doanh. Nhóm này đã làm được nổi bật đặc thù ngành nghề lĩnh vực ảnh hưởng đến việc phân tích tài chính như thế nào, cũng như đưa ra được các chỉ tiêu phù hợp. Tuy nhiên mỗi nghiên cứu lại hướng đến đối tượng phục vụ khác nhau, nên sẽ có những nội dung chưa được đề cập đến. - Về hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính phục vụ các công ty niêm yết: Hầu hết các công trình sẽ đi theo hai hướng, một là phục vụ các đối tượng bên ngoài công ty và hai là phục vụ quản trị công ty. Với nhóm thứ nhất, hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính sẽ sử dụng với mục đích cung cấp thông tin cho các đối tượng bên ngoài sử dụng để đưa ra quyết định như đầu tư, cho vay, cho nên hệ thống chỉ tiêu phải vừa đảm bảo theo quy định của pháp luật vừa phù hợp với nhu cầu của từng đối tượng quan tâm. Trong luận án của tác giả, do không có đầy đủ dữ liệu nên tác giả không đi vào nhóm đối tượng này. Đây là hướng mở cho các đề tài tiếp theo của tác giả cũng như các NCS khác. Với nhóm thứ hai, hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính phục vụ mục đích quản trị. Đây là đối tượng hàng ngày phải đưa ra những quyết định quản trị cho công ty nhằm nâng cao năng lực tài chính của công ty. Họ là những người có đầy đủ tài liệu nhất, có ảnh hưởng quan trọng nhất đến tình hình tài chính của công ty. Vì vậy các quyết định tài chính của họ sẽ liên quan đến quyết định huy động vốn, quyết định sử dụng vốn và quyết định phân phối vốn. Điều này đòi hỏi hệ thống chỉ tiêu phải phản ánh đầy đủ các khía cạnh của tình hình tài chính như: huy động vốn, sử dụng vốn, khả năng sinh lời, kết quả kinh doanh, Các công trình mà tác giả nghiên cứu thuộc nhóm này hầu hết cũng tập trung đi vào các khía cạnh nói trên. Tuy nhiên trong nghiên cứu của họ, cách phân loại chỉ tiêu, tên gọi chỉ tiêu có sự khác biệt. Tác giả kế thừa điều đó cho luận án của mình và sử dụng tên gọi mà tác giả thấy phù hợp nhất. - Về ngành nghề kinh doanh: Các công trình nghiên cứu về lĩnh vực than – khoáng sản: Các nghiên cứu đi cụ thể vào lĩnh vực ngành nghề kinh doanh mà tác giả được biết chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực như xây dựng, thương mại, cầu đường, hàng không, ngân hàng, Có rất ít nghiên cứu đi vào lĩnh vực than – khoáng sản mà tác giả lựa chọn. Hơn nữa, vấn đề phát triển bền vững đang là mối quan tâm hàng đầu của xã hội và các công ty, tuy nhiên tính đến thời điểm hiện nay, chưa có công trình nào phân tích các chỉ tiêu về phát triển bền vững. Đây là điểm mới mà luận án của tác giả đề cập đến.
  10. Một vài bài báo, luận án cũng mới chỉ đề cập được những nét cơ bản về ngành khai thác khoáng sản hoặc đưa được một vài chỉ tiêu phân tích liên quan đến ngành than. Đây là ngành khai thác tài nguyên quốc gia, và có quy trình khai thác càng ngày càng phức tạp. Vì vậy trong quá trình phân tích phải nhìn nhận mọi khía cạnh của hoạt động tài chính để thấy được đặc thù ngành từ đó có chỉ tiêu phù hợp là rất cần thiết. 3. Mục tiêu nghiên cứu luận án Làm rõ thực trạng sử dụng hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính tại các công ty niêm yết thuộc TKV, từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính góp phần nâng cao năng lực quản trị tài chính tại các công ty. Mục tiêu cụ thể: - Hệ thống hoá và làm sáng tỏ thêm cơ sở lý luận về hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính của công ty niêm yết. - Nghiên cứu thực trạng hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính sử dụng tại các công ty niêm yết thuộc TKV. Đánh giá thực trạng từ đó thấy được kết quả và hạn chế của việc sử dụng hệ thống chỉ tiêu phục vụ quản trị. - Đề xuất các giải pháp hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính tại các công ty niêm yết thuộc TKV phục vụ công tác quản trị trong các kỳ tiếp theo. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án - Đối tượng nghiên cứu: Luận án nghiên cứu về hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính tại các công ty niêm yết. - Phạm vi nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu lý luận và thực trạng về hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính phục vụ quản trị tại các công ty niêm yết thuộc Tập đoàn TKV từ năm 2013 đến 2017, khuyến nghị giải pháp cho năm 2018. 5. Câu hỏi nghiên cứu của luận án. Câu hỏi tổng quát là: Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính tại các công ty niêm yết thuộc Tập đoàn TKV như thế nào để đáp ứng yêu cầu quản trị. Câu hỏi cụ thể: - Các công ty niêm yết sử dụng chỉ tiêu phân tích nào phục vụ quản trị? Các nhân tố ảnh hưởng đến hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính công ty niêm yết? - Đặc thù ngành ảnh hưởng đến hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính của các công ty niêm yết như thế nào? - Hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính tại các công ty niêm yết thuộc TKV đã và đang được sử dụng như thế nào để phục vụ mục đích quản trị tại các công ty? Kết quả đạt được và hạn chế đối với thực trạng hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính tại các công ty trên? Nguyên nhân của các hạn chế đó? - Mục tiêu của các công ty niêm yết thuộc Tập đoàn TKV trong thời gian tới như thế nào? Quan điểm hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính tại các công ty niêm yết thuộc TKV?