Tóm tắt Luận án Các yếu tố tác động đến xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam thông qua mô hình hấp dẫn thương mại
Bạn đang xem 30 trang mẫu của tài liệu "Tóm tắt Luận án Các yếu tố tác động đến xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam thông qua mô hình hấp dẫn thương mại", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
tom_tat_luan_an_cac_yeu_to_tac_dong_den_xuat_khau_do_go_viet.pdf
Nội dung tài liệu: Tóm tắt Luận án Các yếu tố tác động đến xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam thông qua mô hình hấp dẫn thương mại
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ – LUẬT CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN XUẤT KHẨU ĐỒ GỖ VIỆT NAM THÔNG QUA MÔ HÌNH HẤP DẪN THƯƠNG MẠI ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TP.HỒ CHÍ MINH – NĂM 2017 0
- MỤC LỤC 1. Lý do nghiên cứu ...................................................................................................... 1 2. Tổng quan nghiên cứu .............................................................................................. 4 2.1. Tổng quan nghiên cứu sử dụng mô hình hấp dẫn trong thương mại quốc tế ...... 4 2.2. Tổng quan nghiên cứu liên quan xuất khẩu đồ gỗ ............................................... 9 2.3. Tổng quan nghiên cứu sử dụng mô hình hấp dẫn thương mại trong nghiên cứu về xuất khẩu đồ gỗ .................................................................................... 11 2.4. Khoảng trống nghiên cứu và hướng đi của đề tài .............................................. 12 3. Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................................. 2 3.1. Mục tiêu chung .................................................................................................... 2 3.2. Mục tiêu cụ thể .................................................................................................... 2 4. Câu hỏi nghiên cứu ................................................................................................... 3 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 3 5.1. Đối tượng nghiên cứu .......................................................................................... 3 5.2. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................. 4 6. Cơ sở lý thuyết và khung phân tích ....................................................................... 15 6.1. Lý thuyết mô hình hấp dẫn trong thương mại quốc tế ...................................... 15 6.2. Các yếu tố tác động đến xuất khẩu đồ gỗ .......................................................... 17 6.3. Mô hình nghiên cứu đề xuất .............................................................................. 20 6.4. Khung phân tích của luận án ............................................................................. 26 7. Phương pháp và dữ liệu nghiên cứu ...................................................................... 26 7.1. Phương pháp nghiên cứu định tính ................................................................... 26 7.2. Phương pháp nghiên cứu định lượng ................................................................. 27 7.3. Dữ liệu nghiên cứu ........................................................................................... 27 8. Kết cấu dự kiến luận án .......................................................................................... 27 9. Tài liệu tham khảo .................................................................................................. 29 ii
- 1. LÝ DO NGHIÊN CỨU Cùng với sự thay đổi trong chính sách đối ngoại và hội nhập quốc tế, Việt Nam đã trở thành một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao nhất thế giới. Kim ngạch xuất khẩu trong giai đoạn 2001-2016 tăng trưởng cao, giá trị xuất khẩu tăng gần 12 lần, từ 15 tỷ USD năm 2001 lên 176 tỷ năm 2016, trung bình cứ sau 4 năm kim ngạch xuất khẩu tăng gấp đôi. So với tăng trưởng GDP, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cao hơn rất nhiều, tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu/GDP tăng lên từ 43% năm 2001 lên 81,5% năm 2016 (tính toán từ số liệu Tổng cục thống kê năm 2001, 2016). Các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam tương đối đa dạng với hàng nghìn sản phẩm khác nhau, từ sản phẩm thô đến sản phẩm chế biến, sản phẩm công nghệ cao. Trong giai đoạn 2001-2016, nhiều mặt hàng xuất khẩu có tốc độ tăng trưởng cao, trong thời gian ngắn đã chiếm vị trí đặc biệt trong hoạt động xuất khẩu của Việt Nam, như: điện thoại, các linh kiện điện thoại, máy tính và các sản phẩm điện tử. Các mặt hàng xuất khẩu truyền thống như giày dép, dệt may, đồ gỗ cũng duy trì được tốc độ tăng trưởng cao và ngày càng chứng tỏ tầm quan trọng trong hoạt động xuất khẩu của Việt Nam. Các sản phẩm nông nghiệp, thủy sản vẫn duy trì được đà tăng trưởng xuất khẩu với tốc độ chậm nhưng ổn định, trong khi các mặt hàng thô đã giảm đi nhanh chóng trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian gần đây. Trong số đó, có thể thấy nhóm ngành điện tử, điện thoại hầu như do các công ty có vốn FDI nắm giữ thị phần, ngành dệt may và giày dép chủ yếu xuất khẩu theo phương thức gia công với giá trị gia tăng thấp, ngành nông sản thường bị ảnh hưởng lớn và bấp bênh trước sự biến đổi của thời tiết và giá cả nước ngoài. Trong khi ngành hàng đồ gỗ ít có sự biến động, kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh qua các năm và mang lại giá trị gia tăng cao cho đất nước. Trong gần 10 năm gần đây, xuất khẩu đồ gỗ và lâm sản của Việt Nam đã có sự tăng trưởng nhanh và liên tục. Theo Bộ công thương (2017), tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam trong năm 2016 đạt gần 7 tỷ USD, đứng thứ 6 trong nhóm các mặt hàng/ngành hàng xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ đạt 5,12 tỷ USD, chiếm 73,3% tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của toàn ngành. Xét dưới góc độ lợi thế so sánh khi tham gia thương mại quốc tế theo chỉ số lợi thế so sánh hiển thị RCA, trong khi các ngành hàng chủ lực khác của Việt Nam có sự biến động tăng giảm chỉ số lợi thế so sánh qua các 1
- năm thì gỗ và các sản phẩm gỗ là ngành hàng duy nhất trong số các ngành hàng có lợi thế so sánh của Việt Nam tăng liên tục từ năm 2001 đến nay. Có được sự thành công lớn trong xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ như nêu trên, đã có nhiều nhận định và giải thích các nguyên nhân từ nhiều nhà khoa học cũng như các nhà lãnh đạo của Việt Nam. Sự thành công đó có thể xuất phát từ việc Việt Nam đã có những chủ trương, chính sách tạo điều kiện thuận lợi, tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế cùng tham gia cạnh tranh, phát triển lành mạnh. Cũng có thể ngành gỗ thành công là do các doanh nghiệp đã rất năng động, sáng tạo, đầu tư thiết bị công nghệ chế biến gắn với thị trường hay việc mở rộng được thị trường xuất khẩu sang nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới là do nước ta có sự mở của ngày càng sâu rộng hơn. Nhiều ý kiến cũng nhận định một nguyên nhân giúp ngành hàng đồ gỗ có thể cạnh tranh tốt hơn và có kim ngạch xuất khẩu cao là do nguồn nguyên liệu trong nước ổn định và tạo được sự cạnh tranh về giá cả phục vụ ngành sản xuất chế biến đồ gỗ tốt hơn. Tuy nhiên, những nhận định trên chỉ xuất phát từ những quan điểm chủ quan và quan sát thống kê, chưa dựa trên những luận cứ khoa học về sự tương quan giữa các yếu tố giải thích với giá trị xuất khẩu đồ gỗ. Bên cạnh đó, nhiều nghiên cứu và số liệu thống kê cũng cho thấy ngành chế biến và xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam cũng còn nhiều hạn chế như phụ thuộc nguyên liệu nước ngoài, khâu thiết kế còn yếu, vận hành chuỗi giá trị ngành gỗ còn nhiều điểm nghẽn. Do đó, nghiên cứu Các yếu tố tác động đến xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam thông qua mô hình hấp dẫn thương mại cho phép chỉ ra và lượng hóa mức độ tác động của các yếu tố đến xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam. Kết quả nghiên cứu đó cùng với những nghiên cứu định tính chuyên sâu sẽ làm cơ sở vững chắc cho việc xây dựng hệ thống các giải pháp để đẩy mạnh xuất khẩu cho ngành chế biến gỗ Việt Nam trong thời gian tới. 2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 2.1. Tổng quan nghiên cứu sử dụng mô hình hấp dẫn trong thương mại quốc tế 2.1.1. Nghiên cứu nước ngoài Thứ nhất, dưới góc độ sử dụng mô hình hấp dẫn thương mại để nghiên cứu xuất khẩu của một quốc gia ra thị trường thế giới, Kristjánsdóttir (2005) đã xác định và đo lường mức độ tác động của GDP và dân số Iceland, GDP và dân số các đối tác nhập 2
- khẩu, khoảng cách của các nước, sự tham gia vào các hiệp định thương mại tự do của các nước lên xuất khẩu chung của Iceland và một số lĩnh vực sản xuất riêng; các yếu tố này cũng được sử dụng để nghiên cứu dòng chảy thương mại của An ba ni (Sejdini và Kraja, 2014), dòng xuất khẩu của Nicaragua (Díaz, 2013), hay xuất khẩu của Trung Quốc (Gu, 2005). Nghiên cứu của Weckström (2013) cũng dùng mô hình lực hấp dẫn để kiểm định và đo lường mức độ tác động của các yếu tố lên xuất khẩu chung của Nga và một số lĩnh vực riêng như xuất khẩu dầu và khí ga. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu cho thấy khoảng cách giữa các quốc gia không có ý nghĩa trong mô hình, trong khi biến tỷ giá hối đoái thực lại có tác động dương lên xuất khẩu. Nghiên cứu của Hai Tho (2013) đã bổ sung vào mô hình yếu tố đầu tư trực tiếp vào nước xuất khẩu, thu nhập bình quân đầu người của nước nhập khẩu là những yếu tố có tác động đến xuất khẩu của một quốc gia khi nghiên cứu trường hợp xuất khẩu của Việt Nam. Camacho (2013) nghiên cứu thương mại của Bồ Đào Nha với thế giới trong bối cảnh hội nhập, ngoài các biến trong mô hình hấp dẫn thương mại truyền thống, tác giả đã kiểm định thêm được các biến về đường biên giới chung và ngôn ngữ sử dụng cũng có tác động nhất định lên luồng thương mại của quốc gia này. A.Elshehawy & cộng sự (2014) nghiên cứu xuất khẩu tại Ai Cập cũng cho kết quả khoảng cách giữa các quốc gia không có ý nghĩa, trong khi các yếu tố về GDP, dân số, hiệp định thương mại tự do và mối quan hệ giữa Ai Cập và các đối tác là các yếu tố tác động đến xuất khẩu của Ai Cập. Nghiên cứu của Antonio & Troy (2014) đưa ra kết luận GDP, khoảng cách, ngôn ngữ, tỷ giá, lịch sử quan hệ thương mại quốc tế sẽ tác động lên thương mại của Caricum. Tương tự, xuất khẩu của Ấn độ cũng chịu tác động của những yếu tố theo nghiên cứu của Antonio & Troy và bổ sung thêm yếu tố quốc gia nhập khẩu có đường biên giới chung với quốc gia xuất khẩu (Suresh K G & N.Aswal, 2014). Thứ hai, dưới góc độ sử dụng mô hình hấp dẫn thương mại để nghiên cứu xuất khẩu của quốc gia đến một khu vực nhất định hay một quốc gia khác, Gil Seong Kang (2014) đã chỉ ra rằng xuất khẩu của Hàn Quốc vào các nước Châu Phi bị tác động bởi các yếu tố khoảng cách địa lý, quốc gia nhập khẩu có giáp biển, thuế nhập khẩu, chỉ số giao dịch thương mại và số dân cư của Hàn Quốc ở nước nhập khẩu. Một nghiên cứu khác lại cho thấy GDP của các quốc gia, dân số của các nước nhập khẩu, số dân của nước xuất khẩu tại nước nhập khẩu, diện tích dất nông nghiệp, khoảng cách địa lý và sự tham gia của các nước vào hiệp định thương mại là các yếu tố tác động lên xuất 3
- khẩu nông sản của Thổ Nhĩ Kỳ vào Liên minh Châu Âu (Erdem& Nazlioglu, 2014). Nghiên cứu của Zhang & Wang (2015) cũng chỉ ra xuất khẩu của Trung Quốc vào các quốc gia Asean chiệu ảnh hưởng của các yếu tố GDP các nước, khoảng cách địa lý, đường biên giới chung, ngôn ngữ sử dụng, và sự tham gia vào các FTA. Thứ ba, dưới góc độ dựa trên mô hình hấp dẫn thương mại để nghiên cứu xuất khẩu của ngành và sản phẩm cụ thể, M.Sevela (2002) đã chỉ ra thu nhập của quốc gia, khoảng cách giữa các quốc gia là những yếu tố tác động lên xuất khẩu nông sản của Cộng hòa Czech. Ly và Zang (2008) lại chỉ ra GDP của nước xuất khẩu, hỗ trợ vốn và rừng, thành viên của APEC, tham gia của Trung Quốc vào WTO, thuế nhập khẩu là các yếu tố ảnh hưởng đến nhập khẩu giấy và bột giấy của Trung Quốc. Một nghiên cứu khác cũng kết luận GDP, tỷ giá, khoảng cách, sự tham gia vào các tổ chức thương mại là những yếu tố tác động đến xuất khẩu nông sản của những quốc gia đang phát triển (Khiyav & cộng sự, 2013). Trong khi đó, các yếu tố tác GNP, dân số, mối quan hệ láng giềng, ngôn ngữ sử dụng và quốc gia nhập khẩu có giáp biển lại tác động đến xuất khẩu nho khô của Thổ Nhĩ Kỳ (Miran,2013). M.Ebaidalla và A.Abdalla (2015) lại phát hiện xuất khẩu nông sản của Sudan ngoài bị tác động bởi các yếu tố GDP, dân số, khoảng cách, tỷ giá, còn bị tác động bởi yếu tố chính sách hỗ trợ và các quốc gia nhập khẩu có nói tiếng Ả rập hay không. Một nghiên cứu khác cho thấy xuất khẩu cà phê của Ethiopia chỉ bị tác động bởi các yếu tố GDP, khoảng cách và dân số (Oumer và P.Nvàeeswara, 2015). G.Dlamini & cộng sự (2016) nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu đường của Swaziland đã bổ sung vào mô hình hấp dẫn thương mại các yếu tố dân số, sự mở cửa của các nền kinh tế, tỷ giá đối đoái, diện tích đất sản xuất và ngôn ngữ sử dụng. Thứ tư, dưới góc độ sử dụng mô hình hấp dẫn thương mại để dự báo tiềm năng thương mại, Butt (2008) cơ bản dựa trên các yếu tố của mô hình hấp dẫn thương mại để nghiên cứu tiềm năng xuất khẩu của Pakistan ra các nước, trong đó bổ sung thêm biến ngôn ngữ sử dụng của các đối tác. Cũng nhằm mục đích dự báo tiềm năng xuất khẩu, nghiên cứu dưới sự chủ trị của Bộ công nghiệp và thương mại Nam Phi đã xác định thu nhập của các đối tác nhập khẩu, khoảng cách địa lý, ngôn ngữ sử dụng, sự tham gia vào hiệp định tự do và chính sách thương mại là các yếu tố sẽ tác động lên tiềm năng xuất khẩu của Nam Phi (DTI of South Africa, 2003). Trong khi đó, Genç và Law (2014) lại dựa trên nền tảng mô hình hấp dẫn thương mại để nghiên cứu sâu về 4
- các yếu tố thuế quan và phi thuế quan tác động lên thương mại quốc tế của New Zeland. 2.1.2. Nghiên cứu trong nước Thứ nhất, các nghiên cứu về tổng thể xuất khẩu của quốc gia ra thị trường thế giới, tác giả Trần Trung Hiếu và Phạm Thị Thanh Thủy (2010) cũng đã ứng dụng mô hình lực hấp dẫn trong thương mại quốc tế và các nghiên cứu thực nghiệm liên quan để xác định và đo lường các yếu tố tác động đến xuất khẩu của Việt Nam. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng các yếu tố GDP của Việt Nam và các nước nhập khẩu, khoảng cách giữa các nước, tỷ giá hối đoái, đầu tư FDI của các nước vào Việt Nam và các biến thể hiện mức độ mở cửa thương mại của các nước có tác động đến luồng xuất khẩu của Việt Nam. Cũng với cách tiếp cận từ mô hình này, Đào Ngọc Tiến (2013) đã nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân tố tới luồng xuất nhập khẩu hàng hóa giữa Việt Nam và các nước TPP. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra các nhân tố tác động bao gồm GDP, dân số, khoảng cách giữa các nước, tỷ giá hối đoái, thuế xuất nhập khẩu giữa các nước và mức độ mở của các nước TPP. Phạm Văn Nhớ và Vũ Thanh Hương (2014) đã dựa trên mô hình trọng lực1 để xác định và đo lường mức độ tác động của các yếu tố GDP của Việt Nam và các đối tác, khoảng cách địa lý, tỷ giá hối đoái thực, mối quan hệ thuộc địa giữa Việt Nam với các thành viên Châu Âu và các nước Châu Âu có là thành viên của Hội đồng tương trợ kinh tế lên dòng thương mại dịch vụ của Việt Nam và liên minh Châu Âu. Một nghiên cứu khác cho thấy dòng chảy thương mại của Việt Nam vào 11 nước TPP bị tác động bởi yếu tố GDP, khoảng cách, tỷ giá hối đoái và sự tham gia của các nước vào các tổ chức thương mại (Nguyễn Việt Tiến, 2016). Nghiên cứu của Viện nghiên cứu quản quản lý kinh tế TW (2016) về sự phụ thuộc kinh tế giữa Việt Nam và Trung Quốc cũng đã dựa trên mô hình trọng lực để chỉ ra các yếu tố về khoảng cách địa lý, GDP, GDP/đầu người của các quốc gia, tỷ giá hối đoái, lạm phát, dân số sẽ tác động đến luồng xuất khẩu của Việt Nam. Thứ hai, các nghiên cứu về xuất khẩu một dòng sản phẩm cụ thể vào thị trường thế giới, Trận Nhuận Kiên và Ngô Thị Mỹ (2015) đã lấy mô hình lực hấp dẫn trong thương mại quốc tế làm nền tảng để xác định các yếu tố tác động đến luồng xuất khẩu nông sản của Việt Nam ra nước ngoài. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra các yếu tố về GDP của 1 Một cách dịch khác của mô hình hâp dẫn trong thương mại quốc tế (Gravity Model) 5
- Việt Nam và các nước nhập khẩu, dân số, khoảng cách địa lý, diện tích đất nông nghiệp, tỷ giá hối đoái và sự mở của thương mại của Việt Nam là những yếu tố tác động mạnh mẽ lên luồng xuất khẩu nông sản của Việt Nam. Trần Thanh Long và Phan Thị Huỳnh Hoa (2015) cũng dựa trên cách tiếp cận này để xác định các yếu tố tác động đến xuất khẩu thủy sản Việt Nam. Nghiên cứu này đã chỉ ra GDP của Việt Nam và các nước đối tác, khoảng cách giữa các nước, tỷ giá hối đoái, sự tham gia vào các hiệp định thương mại của các nước đối tác và Việt Nam là các nhân tố tác động đến giá trị xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. Một nghiên cứu khác của Ngô Thị Mỹ (2016) đã phát hiện thêm các yếu tố dân số, lạm phát, diện tích đất sản xuất cũng có tác động cùng chiều hoặc ngược chiều lên luồng xuất khẩu mặt hàng gạo và cà phê của Việt Nam. Bên cạnh đó, tác giả này cũng chỉ ra biến khoảng cách địa lý giữa Việt Nam và các nước đối tác nhập khẩu không có ý nghĩa trong mô hình nghiên cứu của mình. Trần Thị Bạch Yến và Trương Thị Thanh Thảo (2017) lại chỉ ra rằng chỉ có GDP của nước xuất khẩu, khoảng cách kinh tế, khoảng cách về trình độ phát triển, lạm phát, diện tích đất nông nghiệp, dân số của nước nhập khẩu là các yếu tố tác động đến xuất khẩu gạo của Việt Nam đến các nước Asean. Thứ ba, các nghiên cứu tập trung vào đánh giá tác động của hội nhập kinh tế lên luồng thương mại quốc tế của Việt Nam. Nghiên cứu của Nguyễn Tiến Dũng (2011) dựa trên mô hình hấp dẫn trong thương mại để đánh giá tác động của hiệp định thương mại tự do ASEAN - Hàn Quốc đến dòng xuất nhập khẩu của Việt Nam thông qua việc bổ sung vào mô hình các biến giả thể hiện sự tác động của hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam là Hiệp định thương mại tự do Asean (AFTA), Asean – Trung Quốc, Asean – Nhật Bản, Asean – Hàn Quốc. Nguyễn Anh Thu (2012) lại sử dụng mô hình này để đánh giá tác động của hội nhập kinh tế của Việt Nam theo Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN (AFTA) và Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam-Nhật Bản tới thương mại hai chiều của Việt Nam. Các biến phụ thuộc vẫn được nghiên cứu trên nền tảng của mô hình hấp dẫn thương mại bao gồm GDP, khoảng cách giữa các quốc gia, thu nhập bình quân đầu người, tỷ giá hối đoái thực và các biến giả thể hiện sự mở của của Việt Nam với Asean và Việt Nam với Nhật Bản. Nguyễn Anh Thu & cộng sự (2015) tiếp tục sử dụng mô hình hấp dẫn thương mại để phân tích tác động của các hoạt động hội nhập trong Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) đến luồng thương mại hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam. Kết quả mô hình cho thấy hội nhập thương mại hàng hóa và 6
- thương mại dịch vụ trong AEC đã có tác động tích cực tới cả xuất khẩu và nhập khẩu của Việt Nam bên cạnh những yếu tố truyền thống như GDP, khoảng cách giữa các quốc gia. Thứ tư, các nghiên cứu khác dựa trên nền tảng mô hình hấp dẫn trong thương mại quốc tế. Nghiên cứu của Từ Thúy Anh và Đào Nguyên Thắng (2008) đã đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ tập trung thương mại của Việt Nam với các nước ASEAN+3 dựa trên mô hình hấp dẫn thương mại. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng sự tăng tưởng GDP của Việt Nam và các nước đối tác là yếu tố then chốt ảnh hưởng đến mức độ tập trung thương mại của Việt Nam, nhân tố khoảng cách không ảnh hưởng đến sự tập trung thương mại nhưng có ảnh hưởng nhất định đến xuất khẩu, sự gia nhập vào Asean+3 không có tác động lớn đến thương mại của Việt Nam sang các nước này. Võ Thy Trang (2012) lại vận dụng mô hình trọng lực trong đo lường thương mại nội ngành hàng chế biến giữa Việt Nam với một số nước thành viên thuộc APEC. Kết quả cho thấy bên cạnh những yếu tố mà các nghiên cứu trước đây đã phát hiện ra là GDP, dân số, khoảng cách, tỷ giá hối đoái, độ mở cửa của nền kinh tế thì các biến mức độ tập trung thương mại và quốc gia có giáp biển hay không là những yếu tố tác động tích cực lên thương mại nội ngành giữa Việt Nam và các nước APEC. 2.2. Tổng quan các nghiên cứu liên quan xuất khẩu đồ gỗ 2.2.1. Nghiên cứu nước ngoài Thứ nhất, các nghiên cứu định lượng về các yếu tố tác động lên xuất khẩu đồ gỗ, H.Cohen (2003) đã lượng hóa và kiểm định bằng mô hình định lượng để chứng minh sự tác động của yếu tố hàng rào thương mại đến ngành sản xuất và thương mại xuất khẩu ngành gỗ xẻ của Canada. Tương tự, A.Turner (2008), Katz (2006, 2008) bằng mô hình nghiên cứu định lượng đã kết luận các hàng rào thương mại có tác động nhất định đến xuất xuất khẩu các sản phẩm gỗ từ New Zeland đến Mỹ, Trung Quốc và Nhật Bản. L.Sun & cộng sự (2010) cũng đã lượng hóa mức độ tác động của yếu tố thuế quan và phi thuế quan lên thương mại các sản phẩm lâm sản của Canada. Kết quả cho thấy mặc dù các hàng rào phi thuế quan ít phổ biến hơn nhưng có mức tác động tương tự hoặc lớn hơn hàng rào thuế quan đến thương mại đồ gỗ. Maplesden và Horgan (2016) một lần nửa chứng minh hàng rào thương mại có tác động to lớn đến thương mại sản phẩm lâm sản của New New Zeland bằng nghiên cứu định lượng. Bằng một cách tiếp cận khác, dựa trên khảo sát các doanh nghiệp, L.Eastin & cộng sự (2004) đã sử dụng 7